VITAMIN E

VITAMIN E


Vitamin E dùng để chỉ một nhóm các hợp chất bao gồm cả tocopherols và tocotrienols. Trong số rất nhiều dạng khác nhau của vitamin E, γ-tocopherol là phổ biến nhất trong chế độ ăn của Bắc Mỹ. γ-tocopherol có thể được tìm thấy trong dầu ngô, dầu đậu nành, bơ thực vật, và gia vị. α-tocopherol, có hoạt tính sinh học cao nhất của vitamin E, là dạng phổ biến thứ hai của vitamin E trong chế độ ăn. Dạng này có thể được tìm thấy nhiều nhất trong dầu mầm lúa mì, dầu hướng dương, dầu cây rum. Như một chất chống oxy hóa tan trong chất béo, nó dừng quá trình phản ứng với oxy khi chất béo phải trải qua quá trình oxy hóa. Việc thường xuyên tiêu thụ hơn 1.000 mg (1.500 IU) của tocopherols mỗi ngày có thể sẽ gây hypervitaminosis E, với một nguy cơ liên quan đến thiếu hụt vitamin K và hậu quả của các vấn đề xuất huyết. 

1. CÁC DẠNG

Các hoạt tính dinh dưỡng của vitamin E được xác định bởi hoạt động của α-tocopherol. Các phân tử góp phần hoạt động α-tocopherol là bốn tocopherols và bốn tocotrienols, xác định bởi các tiền tố alpha- (α-), beta- (β-), gamma (γ-), và delta- (δ -). Tocopherols tự nhiên tồn tại dười dạng cấu hình RRR. Dạng tổng hợp có chứa tám lập thể khác nhau và được gọi là 'all-rac'-α-tocopherol. Các dạng tan trong nước như d-alpha-tocopheryl succinate được sử dụng làm phụ gia thực phẩm.

a. α-tocopherol

α-tocopherol là một chất chống oxy hóa tan trong lipid. Nó thực hiện các chức năng như là chất chống oxy hóa trong con đường glutathione peroxidase, và nó bảo vệ màng tế bào khỏi quá trình oxy hóa bởi phản ứng với các gốc lipid sản xuất trong chuỗi phản ứng peroxy lipid. Điều này sẽ loại bỏ các chất trung gian các gốc tự do và ngăn chặn các phản ứng oxy hóa tiếp tục. Các gốc α-tocopheroxyl oxy hóa sản xuất trong quá trình này có thể được tái sử dụng trở lại với dạng giảm hoạt động bởi các chất chống oxy hóa khác, chẳng hạn như ascorbate, retinol hoặc ubiquinol. Tuy nhiên, tầm quan trọng của các thuộc tính chống oxy hóa của phân tử này ở nồng độ hiện diện trong cơ thể là không rõ ràng và lý do mà vitamin E là một chất cần thiết trong chế độ ăn uống có thể không liên quan đến khả năng hoạt động như một chất chống oxy hóa. Các dạng khác của vitamin E có tính chất độc đáo của riêng mình. Ví dụ, γ-tocopherol là một tác nhân nucleophin có thể phản ứng với các chất gây đột biến electrophin. 

b. Tocotrienols

Tocotrienols được nghiên cứu không nhiều. Ít hơn 1% các tài liện của PubMed về vitamin E liên quan đến tocotrienols. Các hướng nghiên cứu hiện nay đang bắt đầu cho sự nổi bật hơn với tocotrienols, các ít chất chống oxy hóa trong họ vitamin E được biết đến nhưng mạnh hơn nhiều. Một số nghiên cứu đã cho rằng tocotrienols có chuyên vai trò trong việc bảo vệ tế bào thần kinh khỏi bị tổn thương và giảm cholesterol bằng cách ức chế hoạt động của men HMG-CoA reductase; δ-tocotrienol bị ức chể phát triển bởi yếu tố sterol mang protein (SREBPs).

Việc uống tocotrienols cũng được cho là để bảo vệ chống đột quỵ liên quan đến tổn thương não trong cơ thể. Cho đến khi nghiên cứu sâu hơn đã được thực hiện trên các hình thức khác của vitamin E, kết luận liên quan đến các hình thức khác của vitamin E, dựa trên các thử nghiệm nghiên cứu chỉ hiệu quả của α-tocopherol, có thể là quá sớm.

2. CHỨC NĂNG

Vitamin E có nhiều chức năng sinh học, chức năng chống oxy hóa là quan trọng nhất và được biết đến nhiều nhất. Các chức năng khác bao gồm các hoạt động của enzyme, biểu hiện gen, và chức năng thần kinh. Chức năng quan trọng nhất của vitamin E đã được gợi ý là việc phát tín hiệu tế bào (và nó có thể không có một vai trò quan trọng trong trao đổi chất chống oxy hóa). 

  • Là một chất chống oxy hóa, vitamin E đóng vai trò sửa chữa gốc peroxyl, ngăn chặn sự lan truyền của các gốc tự do trong các mô, phản ứng với nhau để tạo một tocopheryl triệt để, sau đó sẽ giảm được một nguyên tử hydro (chẳng hạn như vitamin C) và do đó trở lại trạng thái giảm của nó. Vì chúng tan trong chất béo, nó được tích hợp vào màng tế bào, bảo vệ chúng khỏi bị hư hại do oxy hóa. Vitamin E cũng đã từng được sử dụng như là một chất chống oxy hóa thương mại trong siêu polyethylene cao phân tử trọng lượng (UHMWPE) được sử dụng trong hông và đầu gối thay thế, để giúp chống oxy hóa. 
  • Như một điều hoạt động enzim, ví dụ, protein kinase C (PKC), đóng một vai trò trong sự phát triển cơ trơn, có thể bị ức chế bởi tocopherol. α-tocopherol có tác dụng kích thích trên các enzyme dephosphorylation, phosphatase protein 2A, do đó, các nhóm phân cắt phosphate từ PKC, dẫn đến chấm dứt hoạt của nó, mang lại sự tăng trưởng cơ trơn. 
  • Vitamin E cũng có tác dụng về biểu hiện gen. Các đại thực bào giàu cholesterol được tìm thấy trong các mô atherogenetic. Thụ thể CD36 là một scavenger receptor lớp B được tìm thấy để tăng tinh chỉnh bởi oxy hóa lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và gắn với nó. Điều trị bằng α-tocopherol đã được cho là có khả năng điều hòa làm giảm sự biểu hiện của gen thụ thể CD36 scavenger và lớp scavenger receptor A (SR-A) [30] và điều chỉnh biểu hiện của yếu tố tăng trưởng các mô liên kết (CTGF). Các gen CTGF, khi thể hiện, chịu trách nhiệm cho việc sửa chữa các vết thương và tái sinh của các mô bào bị mất hoặc bị hư hỏng trong quá trình xơ vữa động mạch. 
  • Vitamin E cũng đóng một vai trò trong chức năng thần kinh, và ức chế sự kết tập tiểu cầu. 
  • Vitamin E cũng bảo vệ chất béo và ngăn chặn quá trình oxy hóa của các axit béo không bão hòa. 

Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu bổ sung về vitamin E đã sử dụng chỉ α-tocopherol. Điều này có thể ảnh hưởng đến nồng độ các dạng khác của vitamin E, ví dụ: giảm nồng độ trong huyết thanh γ- và δ-tocopherol. Hơn nữa, một bổ sung năm 2007 nghiên cứu lâm sàng liên quan α-tocopherol kết luận không làm giảm nguy cơ của các biến cố tim mạch ở nam giới trung niên và lớn tuổi. 

3. THIẾU HỤT

Sự thiếu hụt vitamin E gây ra các vấn đề thần kinh do sự dẫn truyền kém của xung điện theo dây thần kinh và do sự thay đổi trong cấu trúc của màng thần kinh và chức năng.

a. Dấu hiệu và triệu chứng

Dấu hiệu của sự thiếu hụt vitamin E bao gồm những điều sau đây:

  • Vấn đề thần kinh cơ,  chẳng hạn như mất điều hòa thần kinh cơ spinocerebellar và myopathies. 
  • Vấn đề thần kinh, bao gồm thoái hóa khớp, mất các phản xạ gân sâu, mất cảm giác rung và sự nhạy cảm và dấu hiệu tích cực Babinski. 
  • Thiếu máu do tổn thương oxy hóa để các tế bào máu đỏ.
  • Bệnh võng mạc.
  • Giảm đáp ứng miễn dịch.

Ngoài ra còn có một số bằng chứng trong phòng thí nghiệm rằng thiếu hụt vitamin E có thể gây vô sinh nam. 

b. Nguyên nhân

Thiếu Vitamin E thường rất hiếm và gần như không bao giờ được gây ra bởi một chế độ ăn uống thiếu dinh dưỡng. Thay vào đó, có ba tình huống cụ thể khi thiếu vitamin E có thể xảy ra:

  • Sinh non, trẻ sơ sinh rất nhẹ cân - trọng lượng khi sinh dưới 1500 gram, tương đương 3.5 pounds. Bác sĩ chuyên khoa nhi – trẻ sơ sinh, thường đánh giá các nhu cầu dinh dưỡng của trẻ sinh non.
  • Rối loạn hiếm gặp của quá trình chuyển hóa chất béo - có một điều kiện di truyền hiếm gặp được gọi là tình trạng thiếu vitamin E đã phân lập hoặc mất điều hòa với vitamin E đã được phân lập, gây ra bởi đột biến ở gen tocopherol chuyển hóa protein. Những cá nhân này có một năng lực hấp thụ rất kém. Vitamin E và các phát triển của biến chứng thần kinh bị đảo ngược bởi liều cao vitamin E.
  • Kém hấp thu chất béo - Một số chất béo chế độ ăn uống là cần thiết cho sự hấp thu vitamin E từ đường tiêu hóa. Bất cứ ai được chẩn đoán với bệnh xơ nang, cá nhân đã có một phần hoặc toàn bộ dạ dày của họ loại bỏ hoặc những người đã có một dạ dày, và những người có vấn đề liên quan đến chứng hấp thụ kém như bệnh Crohn, bệnh gan hoặc suy tụy có thể không hấp thụ chất béo (những người không thể hấp thụ chất béo thường xuyên đi phân chứa hạt mỡ hay bị tiêu chảy mãn tính và đầy hơi). Abetalipoproteinemia là một rối loạn di truyền hiếm gặp của chuyển hóa chất béo mà kết quả kém hấp thu chất béo chế độ ăn uống và vitamin E. Việc thiếu hụt vitamin E liên quan với bệnh này gây ra các vấn đề như khả năng truyền kém các xung thần kinh, suy nhược cơ bắp, và thoái hóa của võng mạc có thể gây mù.

c. Điều trị

Việc điều trị là một số bổ sung Vitamin E dạng thực phẩm chức năng.

Điều trị bằng vitamin E thay thế đã cho kết quả để vừa ngăn ngừa, ngăn chặn hoặc cải thiện hiện tượng bất thường về thị giác.

4. SỬ DỤNG LIỀU CAO

Hypervitaminosis E là một tình trạng vitamin E gây độc. Vì vitamin E có thể hoạt động như một thuốc chống đông máu và có thể làm tăng nguy cơ chảy máu, nhiều cơ quan đã thiết lập một mức tiêu thụ trên (UL) cho vitamin E là 1.000 mg (1.500 IU) mỗi ngày. UL này được thành lập do để tăng tỷ lệ xuất huyết với liều cao vitamin bổ sung E. liều vitamin E trên các UL cũng có thể tăng các tác dụng kháng tiểu cầu của một số loại thuốc như thuốc chống đông máu và aspirin, mà có thể gây ra các triệu chứng đe dọa tính mạng bệnh nhân trong bệnh. Hypervitaminosis E cũng có thể chống lại vitamin K, dẫn đến sự thiếu hụt vitamin K.

Dấu hiệu và triệu chứng

  • Lở loét
  • Tăng chảy máu
  • Tăng nồng độ triglycerides trong máu
  • Giảm sản xuất hormone tuyến giáp
  • Giảm hoạt động cũa vitamin K
  • Tăng chảy máu do sử dụng cùng thuốc aspirin hoặc thuốc chống đông máu.

5. NHU CẦU HẰNG NGÀY

Ban Thực phẩm và dinh dưỡng tại Viện Y học (IOM) của Viện hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ báo cáo các mức tham khảo trong chế độ ăn uống sau đây cho vitamin E:

mg/dayTuổi
Trẻ sơ sinh
40 đến 6 tháng
57 đến 12 tháng
Trẻ em
61 đến 3 tuổi
74 đến 8 tuổi
119 đến 13 tuổi
Thanh thiếu niên và người lớn
15Trên 14 tuổi

Một IU vitamin E được định nghĩa là tương đương với một trong hai: 0,67 mg dạng tự nhiên, RRR-α-tocopherol, còn được gọi là d-α-tocopherol; hoặc 0,45 mg dạng tổng hợp, tất cả-rac-α-tocopherol, còn được gọi là dl-α-tocopherol.

6. VITAMIN E VÀ XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

Xơ vữa động mạch là một tình trạng hình thành các mảng bám chứa lipid và cholesterol (chủ yếu là các lipoprotein mật độ thấp hoặc LDL cholesterol) trên các lớp bên trong của lòng ống động mạch. Với các mảng bám tồn tại, thay vì trở mịn và đàn hồi, lớp trở nên dày, không thường xuyên và các lumen của động mạch trở nên hẹp hơn. Tàu thu hẹp này có hiệu lực dẫn đến giảm lưu thông máu và có thể dẫn đến nguy cơ làm tình trạng tăng huyết áp. 

Hiện nay có nhiều giả thuyết giải thích các yếu tố gây ảnh hưởng và các mảng bám cholesterol hình thành trong động mạch với lý thuyết phổ biến nhất chỉ ra rằng tỷ lệ hình thành là bị ảnh hưởng bởi quá trình oxy hóa của cholesterol LDL. LDL cholesterol là một trong năm nhóm chính của lipoprotein với vai trò sinh lý là vận chuyển lipid. Một hạt LDL điển hình chứa 2.700 phân tử axit béo và một nửa trong số đó là các axit béo poly-unsaturated, rất nhạy cảm với oxy hóa. Sau khi quá trình oxy hóa của LDL xảy ra, nó sẽ bắt đầu một loạt các hiệu ứng không mong muốn bắt đầu từ sự gia tăng sản xuất cytokine viêm bằng cách kích thích các tế bào nội mô và bạch cầu đơn nhân, tiếp theo là tăng sản xuất các yếu tố mô, sản xuất của các đại thực bào và bạch cầu đơn nhân, mà cuối cùng dẫn đến sự hình thành của các tế bào bọt và tăng tốc phát triển của xơ vữa động mạch. Với sự hiện diện của nồng độ thích hợp của vitamin E, mà là một chất chống oxy hòa tan trong chất béo rất mạnh, nó có thể ức chế quá trình oxy hóa của LDL, và sự ức chế này góp phần bảo vệ chống lại sự phát triển của xơ vữa động mạch và có thể ổn định các mảng bám tồn tại


  DINH DƯỠNG